Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 4+5
I.1/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới. Ngày nay, sự phát triển kinh tế – xã hội đang đặt ra nhiều yêu cầu ngày càng cao đối với hệ thống giáo dục và đào tạo. Trong đó môn Tiếng Việt là một trong những môn học quan trọng đối với học sinh tiểu học. vai trò hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực ngôn ngữ thể hiện ở 4 loại hình hoạt động: nghe, nói, đọc, viết trong đó đọc cũng đóng vai trò quan trọng đối với trẻ. Đặc biệt phân môn Luyện từ và câu tạo môi trường giao tiếp để học sinh mở rộng vốn từ một cách có định hướng, cung cấp những kiến thức sơ giản về từ, câu và văn bản, rèn luyện kỹ năng dùng từ, sử dụng dấu câu. Qua đó bồi dưỡng cho học sinh thói quen dùng từ đúng, nói và viết thành câu; có ý thức sử dụng văn hóa Việt Nam trong giao tiếp
Như vậy, nếu học sinh có vốn từ cơ bản, có kiến thức cơ bản về Tiếng Việt, có kỹ năng dùng từ, đặt câu, sử dụng dấu câu hợp lý thì sẽ học tốt phân môn Tiếng Việt. . Không những thế, các em sẽ có những thao tác tư duy logic giữa cách giải và phân tích trong giải toán; dễ dàng trình bày những hiểu biết, mong muốn, khám phá của mình khi học môn Khoa học, Lịch sử, Địa lý, Đạo đức,…
Từ đó có thể thấy LT&C có một vị trí quan trọng trong môn Tiếng Việt nói riêng, trong cấu trúc chương trình tiểu học nói chung; và hơn thế nữa, là bước đệm quan trọng giúp học sinh chuẩn bị cho các môn học khác ở các lớp trên.
Chính vì vậy tôi cũng như tất cả các giáo viên tiểu học đều mong muốn học sinh của mình học tốt phân môn luyện từ và câu.
Với mong muốn đó, ngay từ đầu năm học, qua các năm dạy lớp 4 + 5, sau khi đứng lớp, tôi xác định cần tìm hiểu thực trạng việc học Tiếng Việt, học phân môn Luyện từ và câu của các em trong lớp. Qua đợt khảo sát chất lượng thực tế đầu năm của lớp tôi do cô chủ nhiệm. Tôi nhận thấy rằng ngay cả những học sinh giỏi hơn trong lớp cũng viết câu không đúng ngữ pháp
biết ngắt câu, không biết chọn từ, dùng từ,…. Tôi băn khoăn “Làm thế nào để giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu?”. . Đây là một vấn đề rất khó
khó khăn nhưng cũng cần thiết nên tôi chọn đề tài : “Một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu lớp 4 + 5 ở trường Tiểu học Phú Lộc.”
b) Nội dung và cách thức thực hiện biện pháp
Như vậy, qua chuyên đề này, giáo viên phải biết sử dụng nhiều phương pháp, nhiều hình thức khác nhau để giúp học sinh tiếp thu bài một cách tốt nhất qua từng dạng bài cụ thể. Vì vậy, để tiết dạy đạt hiệu quả cao, giáo viên nghiên cứu kỹ nội dung chương trình. Khi hướng dẫn học sinh làm bài, giáo viên cần biết trình tự giải thích, cần có sự ước lượng những tình huống, những lỗi học sinh mắc phải khi giải bài tập để uốn nắn kịp thời. Căn cứ vào nội dung Trong nội dung dạy học môn Tiếng Việt, giáo viên xác định cho mình phương pháp dạy học cụ thể, biết cách thực hiện nhiệm vụ dạy học, từ đó giúp học sinh hiểu và vận dụng vào làm bài tập.
Để dạy học có hiệu quả, giáo viên phải biết kết hợp nhiều phương pháp phù hợp để giúp học sinh hệ thống hóa vốn từ, làm mới ngôn ngữ một cách sáng tạo, làm phong phú vốn từ khi nói cũng như khi nói. Khi viết qua đó các em sẽ được bồi dưỡng thói quen dùng từ đúng, dùng từ hay, phát triển tốt kĩ năng giao tiếp và bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp khi sử dụng Tiếng Việt cho học sinh tiểu học. Khi hướng dẫn học sinh làm bài tập, giáo viên cần biết trình tự giải thích, có phương án về những tình huống, những sai lầm học sinh mắc phải khi giải bài tập để uốn nắn kịp thời.
Ở lứa tuổi tiểu học, đặc biệt là lớp cuối, tâm lý của trẻ hiếu động, tò mò. Vì vậy, tôi đã dựa vào đặc điểm này để làm lợi thế của mình trong việc giáo dục trẻ em.
Trong phần luyện từ và câu, các bài tập theo mẫu chiếm tỉ lệ cao nên phương pháp này góp phần quan trọng giúp học sinh sáng tạo ngôn ngữ mới một cách hiệu quả.
phong phú và sôi động. Tôi cũng sử dụng phân tích ngôn ngữ
được sử dụng như một phương pháp chủ yếu để khai thác các bài học lí thuyết về luyện từ và câu. Từ việc phân tích các hiện tượng ngôn ngữ, giáo viên biết rút ra những kết luận cần ghi nhớ, từ đó vận dụng vào thực tiễn nhiệm vụ học tập một cách thành thạo hơn.
Bên cạnh phương pháp luyện theo mẫu, phương pháp phân tích ngôn ngữ của thầy còn sử dụng phương pháp trò chơi. Đây là một phương pháp có thể thấy được sức mạnh giải phóng năng lượng trí tuệ của trò chơi trong học tập và giảng dạy bộ môn này. Trò chơi được sử dụng ở đầu bài nhằm mục đích kích thích hứng thú tạo tâm thế tiếp nhận kiến thức, cuối bài để củng cố, hệ thống hoá kiến thức.
Tóm lại, Luyện từ và câu là một trò chơi hay, có khả năng “Biến hóa”
thành những trò chơi học tập sinh động, hấp dẫn. Giáo viên phải biết kết hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu để thực hiện đề tài này nhằm nâng cao chất lượng và
tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả nhất.
Để chuyên đề này thành công, bản thân tôi đã nghiên cứu rất nhiều về phương pháp cũng như hình thức tổ chức dạy học, tăng cường nghiên cứu tài liệu đổi mới phương pháp dạy học.
và ý kiến của các chuyên gia trong trường thông qua các buổi hội thảo và tiết học đặc biệt hiệu quả nhất. Chính vì vậy tôi đề ra một số giải pháp cụ thể như sau:
Đầu tiên: Tạo hứng thú học tập ở đầu (giới thiệu bài) và cuối bài Luyện từ và câu:
Nội dung của bài Luyện từ và câu được thể hiện rõ ràng, cụ thể, lần lượt trong từng bài tập (kiểu bài “hướng dẫn luyện tập”) và trong hoạt động dạy bài mới, giải bài tập sau. (hình thức “lý luận dạy học”). Tuy nhiên, tôi rất chú ý đến phần mở đầu
và kết thúc bài viết.
Ở phần mở bài, tôi thường khơi gợi tính tò mò, ham hiểu biết ở học sinh, dẫn dắt các em đi từ cái đã biết, đã học đến chưa biết, chưa học, làm cho các em có hứng thú học, muốn học cái gì thì học. chưa biết trong bài viết mới.
* Ví dụ: Khi dạy “Cách viết tên người, tên địa lý nước ngoài” (SGK Tiếng Việt 4, tập 1) Khi bắt đầu bài học mới, tôi hỏi “Tiết LT&C trước, chúng ta đã học viết tên người, tên địa lý Việt Nam như thế nào?” (Viết hoa chữ cái đầu tiên của mỗi từ tạo thành tên.)
Hôm nay chúng ta sẽ học cách viết tên địa lý nước ngoài. cần phải viết
những bông hoa? Viết hoa như thế nào? Chúng ta sẽ tìm hiểu qua bài học hôm nay…hoặc khi dạy
Cuối tiết học, tôi thường đặt câu hỏi gợi cho học sinh sự tò mò, mong chờ tiết học sau.
* Ví dụ : Sau khi dạy bài “Câu” (SGK Tiếng Việt 4, tập 1), tôi dặn dò “các em đã biết câu hỏi dùng để hỏi những điều mình chưa biết và cũng đã vận dụng trong nói, viết. Tiết sau, em sẽ tìm hiểu thêm về những mục đích mà câu hỏi được sử dụng cho
lại? … . Chúng ta sẽ tìm hiểu trong bài tiếp theo. Ở nhà xem bài trước nhé! vớ
Tuy nhiên, khi sử dụng câu hỏi gợi mở, giáo viên cũng cần kết hợp với nét mặt, cử chỉ,
mắt. ngữ điệu,… để khơi gợi cho học sinh sự tò mò, hứng thú học tập.
Thứ hai: Tạo hứng thú học tập cho học sinh khi nhận xét bài làm của mình.
Khi đánh giá, nhận xét bài làm của học sinh, đặc biệt là những bài dùng từ đặt câu, viết đoạn văn, bài văn (trong phân môn Luyện từ và câu, tập làm văn), tôi đặc biệt chú ý.
Em ghi cẩn thận những nhận xét, đánh giá, gạch chân những phần cần sửa chữa, sau đó em ghi những lỗi các em mắc phải trong bài. Ví dụ “Em chọn sai từ rồi, cần chọn kỹ lại
hơn nữa”, “Em không biết nghĩa của câu, em cần sắp xếp lại các từ để câu có nghĩa hơn” hay “Các ý trong câu em viết chưa phù hợp, chưa hợp lý, em cần suy nghĩ lại”. ..
Với những tiến bộ dù rất nhỏ, khi các em đạt được, tôi kịp thời nêu gương, tuyên dương trước lớp. Thường xuyên nhắc nhở, chỉ ra lỗi sai, tôi tin rằng các em sẽ nhận ra khuyết điểm. trong tác phẩm, đồng thời là những lời động viên, tuyên
Thái độ tích cực của giáo viên giúp học sinh tự tin vào bản thân, hứng thú và yêu thích học tập.
Thứ ba: Tạo hứng thú cho học sinh thông qua các hoạt động thi đua, trò chơi trong dạy và học luyện từ và câu.
Các cuộc thi và trò chơi là một cách thú vị và hiệu quả để giảng dạy. Khi thi đua và tham gia trò chơi học sinh phải có cảm giác cố gắng, cần thực hiện tốt, nhanh hơn bạn. Đó là
Một trong những động cơ giúp học sinh say mê, hứng thú học tập. Vì vậy, tôi thường
Học bài để tổ chức học tập thi đua trong các bài luyện từ và câu (và ở các tiết học khác).
lớp khác nếu có thể). Ví dụ: Dạy bài “Luyện tập về từ ghép và từ ghép” (sách Tiếng Anh
Tiếng Việt 4, Tập 1 ) Sau khi làm xong bài tập 1, đọc yêu cầu của bài tập 2, tôi tổ chức cho học sinh thi cá nhân theo các bước.
Bước 1: Đ/S nhớ lại công việc phải làm để phân loại từ ghép trong câu.
Bước 2: Yêu cầu học sinh làm việc cá nhân trong 30 giây.
Bước 3: Chia lớp thành 2 hàng, mỗi hàng mời 3 học sinh có học lực tương ứng thi chạy tiếp sức.
Bước 4: Nêu thể lệ cuộc thi: Khi có tín hiệu báo hết giờ, bạn nào viết lên bảng các từ ghép vào cột thích hợp, bạn nào xếp nhanh và đúng hơn bạn ( dãy khác ) sẽ thắng cuộc.
Bước 5: Tổ chức thi đấu, giáo viên trong lớp cổ vũ, nhận xét, tuyên dương đội thắng cuộc
(HS giải thích vì sao từ tàu là từ ghép? Vì sao từ núi là từ ghép?)
Đối với bài “Danh từ” (SGK Tiếng Việt tập 1, trang 57) để thực hiện bài tập 1, tôi tổ chức cho học sinh thi đua theo nhóm đối tượng theo các bước sau:
Bước 1: Cho học sinh đọc câu hỏi để xác định yêu cầu, hiểu công việc phải làm (Tìm danh từ chung và danh từ riêng).
Bước 2: Yêu cầu HS họp nhóm 4 em thảo luận và ghi vào phiếu (Thời gian 3 phút).
Bước 3: Nhóm nào xong trước dán lên bảng.
Bước 4: Các nhóm trình bày.
Bước 5: Cả lớp và giáo viên nhận xét nhóm làm tốt, sửa sai. Ngoài việc tổ chức các cuộc thi học tập giữa các cá nhân, nhóm trong giờ học, tôi còn tổ chức
tổ chức các trò chơi Tiếng Việt vào mọi thời điểm có thể (Cuối giờ luyện từ và câu, phần giờ sinh hoạt văn nghệ, trò chơi trong sinh hoạt tập thể,… nhằm giúp trẻ học bằng chơi, chơi mà học).
Các trò chơi có thể sử dụng là: Giao tiếp, tìm nhanh, kiểm tra mở rộng câu, kiểm tra từ, kiểm tra từ. Đoán ý kiến của đồng đội,… Khi tổ chức, tôi luôn xác định nội dung cụ thể:
– Mục đích của trò chơi là gì?
– Chuẩn bị cái gì? Khi nào nó được tổ chức?
– Làm thế nào để tiến hành?
– Có đáp án và gợi ý bài tập trong game không?
Sau khi hoàn thành trò chơi Tiếng Việt tôi cho trẻ tự đánh giá, nhận xét và
Cả lớp tuyên dương những bạn tích cực, nhiệt tình, chơi đẹp.
Thứ tư, tổ chức họp nhóm học sinh để xác định mức độ tiếp thu của học sinh.
Chúng ta biết rằng kết quả học tập là kết quả của việc học tập, trực tiếp của mỗi cá nhân, vì vậy cá nhân cần chú ý đến việc dạy học của từng cá nhân. Tuy nhiên, kết hợp dạy học cá nhân
với hoạt động nhóm sẽ tạo ra mục tiêu, phương tiện để mỗi em học tập tích cực, chủ động. Vì vậy, ngay từ đầu năm tôi đã chú ý phân loại trình độ học tập của học sinh.
chia thành các nhóm với mục đích khác nhau và sử dụng linh hoạt
trong mỗi tiết học chứ không chỉ ở các tiết luyện từ và câu.
*. Nhóm đối tượng (Nhóm 4).
Nhằm giúp học sinh yếu kém tự tin trình bày ý kiến, học sinh khá, giỏi có điều kiện phát huy năng lực; Đồng thời để giáo viên dễ dàng giúp đỡ học sinh yếu kém, gợi ý học sinh khá, giỏi tôi đã tổ chức họp học sinh trong lớp thành 4 nhóm, nhóm đối tượng.
Những em có sức tiếp thu chậm hơn tôi chia thành 2 nhóm: nhóm 1, nhóm 2. Ở 2 nhóm này tôi bố trí họp nhóm ở 2 bàn đầu của 2 dãy để giúp đỡ các em dễ dàng hơn.
Những em có khả năng tiếp thu nhanh, nắm chắc kiến thức cơ bản ở lớp dưới, tôi xếp các em vào một nhóm. Những trẻ còn lại tôi cho trẻ họp thành nhóm 4 người trên cơ sở trẻ tự chọn.
Vấn đề là sử dụng nhóm 4, nhóm đối tượng khi nào? Như tôi đã nói, tôi thường sử dụng nó trong mọi lớp học; nhất là các tiết ôn tập, luyện Tiếng Việt, họp nhóm phân môn, trao đổi về viết một đoạn văn, bài văn, đặt câu, lập dàn ý… giúp các em tự tin trình bày ý kiến của mình và tìm hiểu. Nhận xét và góp ý của bạn để chỉnh sửa chung.
*. Nhóm đồng hành:
Những trường hợp cần làm bài ít phức tạp trong thời gian ngắn, yêu cầu học sinh đều hiểu thì tôi thường tổ chức phụ đạo cho các em.
Nhóm thường có một hoặc hai bạn học khá giỏi hoạt động với một bạn học dở.
*. Nhóm 2 bàn liền kề:
Với số lượng bài tập có nội dung dài và cần tăng cường phối hợp nhiều ý, tôi tổ chức cho học sinh họp nhóm 2 bàn. Nhóm này gồm các em ở hai bàn gần nhau. Khi sắp xếp học sinh ngồi vào bàn tôi đã chú ý đến mức độ tiếp thu của các em. Vì vậy, khi họp nhóm hai bàn, mỗi nhóm có HS khá, giỏi thảo luận giúp đỡ HS trung bình, yếu. Các em tự phân công công việc để nhóm mình hoàn thành bài tập đúng và nhanh hơn.
*. Nhóm tự học (2,3,4..)
Ở những bài có câu hỏi hoặc bài tập mang tính mở cao, tôi cho học sinh họp theo nhóm 2, 3, 4.. tự chọn.
Trên cơ sở có cùng sở thích, tính cách, cách suy nghĩ, các em kết hợp với 1, 2, 3 bạn khác thành lập nhóm, để mỗi nhóm thể hiện được những đặc điểm nổi bật của mình mà không lẫn với nhóm khác. Được rồi. Ví dụ: Nhóm bạn nhanh nhẹn nhưng hay mắc lỗi chi tiết nhỏ. Nhóm bạn thường xuyên có ý tưởng mới, hay, từ ngữ sáng tạo
viết rất tệ. Nhóm bạn thể hiện chính xác và sắc nét. Nhóm bạn chậm thường chỉ đưa ra cách tư duy, cách giải đơn giản, hoặc hướng đi chưa đúng, v.v.
* Với 4 kiểu nhóm trên, tôi căn cứ vào bài học, bài tập luyện từ và câu cụ thể để yêu cầu các em làm việc cá nhân hoặc tổ chức cho các em làm việc theo một kiểu nhóm nào đó cho phù hợp và có hiệu quả. hoa quả.
Ví dụ: dạy bài học Ôn tập “Mở rộng vốn từ theo chủ đề: Người là hoa đất; Vẽ màu đẹp; Những người dũng cảm (TV4 tập 2 SGK trang 97)” Tôi tổ chức các hoạt động cụ thể cho từng bài tập sau:
BT1 : Với yêu cầu: “Tìm từ theo các chủ đề trên, mỗi HS nêu được một số từ nhất định, không nhiều không ít; Vì vậy, tôi tổ chức làm bài cá nhân rồi trình bày trước lớp, ưu tiên cho học sinh yếu, trung bình… làm trước, sau đó mời các em lần lượt làm.
ý kiến bổ sung khác.
BT2 : Yêu cầu tìm những câu tục ngữ về “Người là hoa của đất; vẽ đầy màu sắc; Những con người dũng cảm”. Yêu cầu này đòi hỏi học sinh phải có trí nhớ, đọc lại các câu
Thành ngữ, tục ngữ đã biết thì suy nghĩ rồi sắp xếp vào đúng chủ đề. Tôi tổ chức cho các em nhóm 4 (nhóm đối tượng) một cuộc họp với thời lượng 5 phút và hỏi nhóm yếu,
nhóm trung bình chỉ cần tìm 1, 2 thành ngữ, tục ngữ cho mỗi chủ đề; Các nhóm khác tìm từ 3 thành ngữ, tục ngữ trở lên cho mỗi chủ đề.
nên tôi cho trẻ họp thành 2 bàn (6 phút) làm vào bảng nhóm.
BT3: Bài tập này yêu cầu bạn chọn một từ cho sẵn để điền vào chỗ trống. Chọn từ phù hợp
nghĩa, sau đó các nhóm dán kết quả bài làm của mình lên bảng lớp, cho các nhóm khác nhận xét. Khi đó bản thân các em và các bạn cùng giúp đỡ, bổ sung cho nhau để hệ thống được vốn từ cơ bản (dưới sự hướng dẫn của giáo viên). Tất nhiên, sau mỗi bài tập, giáo viên nhận xét, động viên những yêu cầu đã làm được, sửa chữa những thiếu sót để các em sửa chữa, hoàn thiện.
1.1/ Trong quá trình dạy luyện từ và câu, dạy học các phân môn Tiếng Việt khác cần chú ý trọng tâm các kiến thức về từ và câu:
1.2/ Trong quá trình dạy luyện từ và câu:
Giáo án Luyện từ và câu lớp 4 bao gồm hai kiểu bài cơ bản: Dạy lý thuyết (gồm 3 phần nhận xét, ghi nhớ, luyện tập) và dạy thực hành (mở rộng, hệ thống hóa vốn từ).
lời, ôn tập, tóm tắt, trình bày dưới dạng bài tập thực hành).
Phần kiến thức về luyện từ và câu được nhấn mạnh ở đây, tôi xin trình bày ở hai mặt.
Đầu tiên là kiến thức, nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh (như mục 1 đã trình bày ở trên).
Thứ hai là sự cụ thể hóa, nhấn mạnh kiến thức trọng tâm trong bài học. Muốn
Vì vậy, tôi đã nghiên cứu kỹ bài học để xác định nội dung nào cần cụ thể hóa, có thể nêu rõ nguyên nhân, nhấn mạnh, khắc sâu cho học sinh để các em (nhất là những em có khả năng tiếp thu chậm) dễ dàng tiếp thu. hiểu bài; Khắc sâu, nhớ lâu kiến thức.
Ví dụ : Cho tập thể dục:
Xếp các từ cho dưới đây thành các nhóm từ đồng nghĩa:
mênh mông, lung linh, vắng vẻ, hiu quạnh, lấp lánh, lấp lánh, bao la, vắng vẻ, vắng vẻ, bao la, lấp lánh, lung linh, cô đơn, bao la
(Tiếng Việt 5, tập 1, tr.22)
Để giúp học sinh tiếp cận dạng bài tập này, giáo viên cần gợi ý cụ thể:
- Xác định mục tiêu của bài thực hành.
- Xây dựng đáp án bài tập.
- Thiết kế một bài tập tương tự như trên.
Như vậy, người giáo viên phải biết tạo hứng thú cho học sinh bằng các phương pháp gợi mở,
biết cách xác định mục tiêu của bài tập, xây dựng đáp án cụ thể cho bài tập rồi thiết kế một bài tập tương tự. Lấy cảm hứng khi hoàn thành bài tập bằng chính sự hiểu biết của mình.
*Gợi ý:
– Mục tiêu của bài thực hành: Hệ thống hóa vốn từ về từ đồng nghĩa cho học sinh.
– Đáp án bài tập: (1) bao la, bao la, bao la, bao la; (2) lung linh, lấp lánh, lấp lánh, lung linh, lấp lánh (3) vắng vẻ, hiu quạnh, vắng vẻ, vắng vẻ, vắng vẻ.
* Khi thiết kế một bài tập tương tự như bài tập trên cần chú ý đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Bài tập thiết kế cần đảm bảo sự phù hợp về mục tiêu (hệ thống hóa từ vựng) và cơ sở ngôn ngữ (từ đồng nghĩa) với bài tập đã cho.
+ Ngữ liệu bài tập hấp dẫn, mới lạ, đảm bảo tính phù hợp, chính xác.
Ví dụ: Sắp xếp các từ cho dưới đây thành các nhóm từ đồng nghĩa:
Nhìn trộm, cao chót vót, khao khát, mong đợi, cúi xuống, lùn đi, khom lưng, đang chờ đợi, kỳ diệu, thấp hèn, mong đợi, tuyệt vời
Năm là, tổ chức cho học sinh luyện viết câu văn, đoạn văn.
Trong một tuần tôi dành một tiết luyện từ và câu cho các em. Dựa vào nội dung bài đã học, tôi cho lớp họp nhóm và ra bài cụ thể.
* Nhóm yếu, trung bình làm bài yêu cầu nhận dạng kiến thức mới học, yêu cầu nhận dạng ở mức độ đơn giản.
Ví dụ :
- Viết lại 3-5 từ về chủ đề người dũng cảm (hoặc viết lại 3-5 từ về chủ đề người là hoa đất). Ghi lại ý nghĩa của các từ.
2.Chọn từ vừa ghi, viết câu có đầy đủ nhóm chủ ngữ, vị ngữ Khá, Giỏi, Em đạt yêu cầu cao hơn
Ví dụ :
Đầu tiên . Viết lại 5-10 từ về chủ đề người dũng cảm (Hoặc viết lại 5-10 từ về chủ đề người là hoa và đất). Ghi lại ý nghĩa của các từ.
- Chọn một số từ viết thành đoạn văn (5 câu trở lên) nói lên suy nghĩ của mình để trả lời “thế nào là can đảm ”
Các nhóm khác có yêu cầu thấp hơn nhóm khá và tốt
Ví dụ:
1./Viết lại 5 từ trở lên theo chủ đề “những người dũng cảm”. Viết ra ý nghĩa của một số từ bạn thích.
2/ Chọn một số từ viết thành đoạn văn (khoảng 3-5 câu) nói lên suy nghĩ của em để trả lời “bản lĩnh là gì?”.
Tuy nhiên tránh áp đặt cho học sinh; Học sinh nên được khuyến khích để đưa ra tuyên bố
ôn tập riêng khuyến khích sinh viên tranh luận để sinh viên chủ động khám phá kiến thức cần biết.
Thứ sáu, làm từ điển cá nhân.
Tôi động viên, khuyến khích họ làm từ điển cá nhân; mỗi tuần hãy tìm một từ và nghĩa của nó rồi ghi vào từ điển cá nhân đó. Mỗi từ đặt một hoặc nhiều câu theo cách riêng để làm rõ nghĩa đó. Học sinh khá tìm từ 3-5 từ trở lên, học sinh trung bình, yếu tìm từ 1-3 từ. Với những em có hoàn cảnh gia đình khó khăn có thể ghi vào cuốn sổ nhỏ. Còn những em có hoàn cảnh khá hơn, tôi khuyến khích các em viết vào vở đẹp để sử dụng lâu dài cho các lớp sau, tất nhiên tôi phải kiểm tra (vào giờ ra chơi, ngày đầu tuần hoặc bất cứ lúc nào rảnh rỗi) để nhắc nhở, động viên. các em và kịp thời tuyên dương các em đã chăm chỉ, tìm đúng, trình bày sạch sẽ.
Từ những cách thực hiện giải pháp trên tôi nhận thấy các em hứng thú học tập hơn, say mê hơn, chăm chỉ hơn và có kết quả học tập cao hơn.
III.1 KẾT LUẬN
Qua một thời gian khá dài nghiên cứu, tìm tòi và thực hiện tôi nhận thấy rằng để giúp cho việc học
Học sinh lớp mình học tốt phân môn Luyện từ và câu (nói riêng), học tốt Tiếng Việt nói chung, giáo viên cần lưu ý một số điểm sau:
Một là , nghiên cứu kỹ những thuận lợi, khó khăn của lớp mình dạy, tình hình học luyện từ và câu của lớp, những nguyên nhân gây khó khăn cho học sinh trong học tập.
hai là tạo hứng thú, động cơ học tập cho học sinh (bằng nhiều hình thức, nhiều cách tuỳ
theo sở trường của từng giáo viên; nội dung bài học).
Ba là, xác định mức độ tiếp thu, tổ chức họp nhóm cho học sinh (với nhiều loại hình nhóm phù hợp với từng mục tiêu bài học, từng hoạt động dạy học).
Bốn là, Cần có những điểm nhấn, gợi mở để cụ thể hóa, khắc sâu kiến thức về phần luyện từ và câu trong quá trình dạy học phân môn Tiếng Việt.
Năm là, tổ chức cho học sinh luyện viết câu, đoạn văn với mức độ yêu cầu phù hợp với đặc thù học sinh.
Sáu là, hướng dẫn, giúp đỡ học sinh tự tạo từ điển cá nhân. Và một điều nữa mà mỗi giáo viên nên biết đó là sự động viên kịp thời cũng như nhắc nhở ân cần, tỉ mỉ,… là yếu tố rất quan trọng để tạo hứng thú học tập cho học sinh. học tập và tiếp thu kiến thức.
Trên đây là một số điều mà tôi đã suy nghĩ và đưa ra hướng giải quyết đối với vấn đề giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu của lớp 4B4 Năm học 2013-2014 và 5A4 2014-2015 trường Tiểu học Phú Lộc trong thời gian qua . Biết rằng bài viết còn nhiều hạn chế, mong hội đồng khoa học các cấp và các bạn đồng nghiệp góp ý để
giúp các em học tốt hơn phân môn luyện từ và câu, học tốt môn Tiếng Việt
nhấn vào đây để tai